Top 10 Tản Văn Về Tết Đặc Sắc Nhất - Khám Phá Văn Hóa Việt
1. Vị Tết - Hương Vị Của Sự Đoàn Viên
Có người từng nói: "Càng lớn, Tết dường như không còn vui như xưa. Nhớ lắm cái hương vị Tết ngày thơ bé". Thực ra, Tết vẫn vẹn nguyên, chỉ có chúng ta đã thay đổi. Không còn là những đứa trẻ háo hức chờ Tết để mặc quần áo mới, nhận lì xì, hay quây quần bên nồi bánh chưng. Giờ đây, chúng ta mang trên vai trách nhiệm, lo toan cuộc sống, và đôi khi quên mất giá trị tinh thần của ngày Tết.
Tết không phai nhạt, mà là vì ta đã lớn. Những bữa cơm đoàn viên dần vắng bóng người thân, căn nhà rộng thêm vì con cái đi xa. Ta không còn cảm nhận được mùi lá mùi đêm Ba Mươi, hay hương bồ kết nướng thơm lừng. Thay vào đó là những lo toan vật chất, khiến ta vô tình xa rời cái hồn Tết.
Nhưng Tết vẫn mãi là dịp để trở về, để sum vầy bên mâm cơm ấm áp tình thân. Dù cuộc sống bộn bề, hãy dành thời gian trở về nhà, ngửi lại mùi hương quen thuộc, và cảm nhận trọn vẹn vị Tết. Vì Tết không chỉ là ngày lễ, mà là khoảnh khắc để ta lắng lòng, yêu thương và trân trọng những điều giản dị nhất.
Hãy trở về, và bạn sẽ thấy Tết vẫn đậm đà như xưa.
Thanh Nguyễn


2. Tết... - Khoảnh Khắc Của Sự Trở Về
Thấm thoắt một năm nữa sắp qua đi. 365 ngày miệt mài làm việc để vun vén cho tổ ấm gia đình, nhưng liệu ai cũng cảm thấy mãn nguyện? Ngoài kia, vẫn còn những mảnh đời cơ cực, những thân cò lặn lội trong đêm lạnh. Càng gần Tết, nhịp sống càng hối hả, mọi người đều mong chờ ngày sum họp.
Tết đến, trẻ con háo hức trong bộ quần áo mới, người già trầm ngâm bên cành đào, cành mai, suy ngẫm về nhân tình thế thái. Người trưởng thành lại tất bật với những lo toan về tiền bạc, về những mối quan hệ. Mỗi khuôn mặt là một nỗi buồn vui khác nhau.
Tết là dịp để mọi người dành thời gian lau dọn nhà cửa, trang hoàng bàn thờ tổ tiên. Khói hương trầm quyện với cái lạnh đầu năm, mang theo niềm tin và hy vọng về một năm mới tốt đẹp hơn. Tết cũng là lúc gia đình quây quần, cùng nhau thưởng thức vị ngọt của hạnh phúc bên mâm cơm ấm áp.
Nhưng Tết cũng là lúc ta nhận ra mình đã thêm một tuổi, mái đầu điểm thêm sợi bạc. Liệu đó là niềm vui hay nỗi buồn? Hãy trân trọng từng khoảnh khắc, vì Tết không chỉ là ngày lễ, mà là dịp để ta trở về với chính mình và những người thân yêu.
Cậu Tú


3. Tết ở quê - Hương Vị Của Sự Giản Dị Và Ấm Áp
Nếu ở thành phố, Tết đến với những dòng người tấp nập, những hàng hoa rực rỡ, thì Tết ở làng quê lại mang một vẻ đẹp riêng, giản dị mà ấm áp.
Những ngày giáp Tết, người dân quê tôi bận rộn với mùa vụ. Từ sáng sớm, khi sương mù còn giăng kín đường làng, các bà, các mẹ đã ra đồng. Tiếng cười nói vang khắp cánh đồng, những hàng mạ non xanh mơn mởn được gieo xuống, như một thảm xanh báo hiệu mùa xuân đang về. Sau khi cấy lúa, mọi người cùng nhau quét dọn, sơn lại nhà văn hóa xóm, treo cờ đỏ sao vàng và trang trí đèn lồng nhấp nháy.
Ngày 23 tháng Chạp, cúng ông Táo về trời, mỗi nhà đều dựng cây nêu với lá cờ đỏ tung bay trong gió. Những cành đào chúm chím nụ hồng được trang trí đèn lồng và quả bóng đủ màu sắc, báo hiệu tài lộc và sự hưng thịnh trong năm mới. Đồ ăn Tết cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng, từ những luống rau xanh mướt trong vườn đến những mẻ cá, tôm đánh bắt từ ao làng. Mọi người cùng nhau làm thịt lợn, thịt trâu, và chuẩn bị những món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh tét.
Chiều 29 Tết, cả nhà quây quần gói bánh chưng, bánh tét. Bếp lửa hồng, tiếng cười nói rôm rả, xua tan cái lạnh giá của mùa đông. Đêm đó, cả nhà ngồi bên nồi bánh chưng, vừa hơ tay vừa trò chuyện, chờ đợi bánh chín. Sáng sớm hôm sau, những chiếc bánh thơm dẻo được bóc ra, mang theo hương vị Tết truyền thống.
Ngày 30 Tết, tiếng trống nhà thờ họ vang lên, mùi hương trầm lan tỏa khắp không gian. Lũ trẻ xúng xính trong bộ quần áo mới, mang theo quà Tết đến nhà thờ họ. Tết ở quê là những khoảnh khắc giản dị, ấm áp, nơi mọi người sum họp, chia sẻ yêu thương và cùng nhau đón chào năm mới.
Hà Vinh Tâm


4. Thược Dược Gọi Tết - Hương Sắc Của Ký Ức Hà Nội
Cận Tết, Hà Nội chìm trong làn mưa bụi lất phất, phủ lên thành phố một lớp khăn voan mềm mại với cái rét ngọt cuối đông. Tôi trở về nhà sau một ngày bộn bề công việc, bắt gặp hình ảnh một chiếc xe đạp cũ chở những đóa thược dược rực rỡ sắc màu. Lập tức, tôi mua một bó hoa thược dược lớn cùng vài cành violet. Mỗi lần nhìn thấy hoa thược dược, tôi lại cảm nhận Tết đang đến gần, kéo theo bao ký ức xưa ùa về.
Nhớ những ngày Tết đã xa, sáng tất niên, mẹ thường dắt tôi đi chợ hoa, chọn những cành thược dược đủ màu sắc, kết hợp với violet, hoa đồng tiền, lay-ơn và cánh bướm. Về nhà, mẹ ngâm hoa vào chậu nước để “hồi sức” cho chúng, rồi tỉ mẩn cắm vào chiếc bình men màu lam. Mẹ còn dạy tôi những bí quyết giữ hoa tươi lâu: tỉa bớt lá, cắt vát cuống hoa dưới nước, và thêm vào nước cắm hoa một chút thuốc B1, Aspirin, giấm trắng, đường hoặc nước cốt chanh.
Hoa thược dược, với người Hà Nội, không chỉ là loài hoa đẹp mà còn mang ý nghĩa sâu sắc. Được tôn vinh là “hoa tướng” sau mẫu đơn, thược dược tượng trưng cho sự may mắn, viên mãn và thành tựu. Trong tình yêu, nó là biểu tượng của hạnh phúc trường tồn. Không chỉ xuất hiện trong ngày Tết, hoa thược dược còn được dùng trong các đám cưới, mang đến sự sang trọng và ý nghĩa sâu sắc.
Hoa thược dược thuộc loại cây thân thảo, sống lâu năm, có nguồn gốc từ Mexico. Sắc hoa phong phú, từ tím, cam, hồng, đỏ đến trắng, mỗi bông hoa lại có sự pha trộn màu sắc hài hòa. Cánh hoa xếp thành từng lớp như tổ ong, tỏa đều về các hướng, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ. Ngắm nhìn cánh đồng hoa thược dược đúng độ nở, ta cảm nhận được năng lượng tốt lành lan tỏa.
Người Hà Nội xa quê thường nhớ về những điều giản dị như hoa thược dược. Một lần, tôi mang bó hoa thược dược và violet làm quà cho người bạn gốc Hà Nội đang sống trong Nam. Bạn tôi đã vỡ òa hạnh phúc, thốt lên: “Ôi, bạn mang Tết Hà Nội vào đây rồi!”. Câu nói ấy khiến tôi rưng rưng xúc động.
Xuân đến, dạo qua những cánh đồng hoa của đất kinh kỳ, tôi vẫn nhận ra những luống hoa thược dược thắm sắc trong làn mưa bụi. Hoa thược dược không chỉ đẹp mà còn in đậm trong ký ức của những người từng sống ở Hà Nội. Chiều nay, tôi cắm một bình hoa thược dược và thầm nhớ về lời nhắn gửi của bạn bè: “Thấy hoa thược dược là thấy Tết”.
Bài Vy Anh


5. Kí Ức Tết Xưa - Những Ngày Đầm Ấm Và Thân Thương
Tôi nhớ Tết của những ngày xưa, xưa ấy! Kí ức vẫn nguyên vẹn những cái Tết nghèo mà đầm ấm, mộc mạc mà thân thương. Có lẽ vì nghèo, vì thiếu thốn mà con người ta dùng tình yêu thương để lấp đầy những khoảng trống, để quên đi nỗi lo cơm áo, để sum họp gia đình những ngày đầu năm thật ấm cúng.
Tôi nhớ những ngày giáp Tết, mẹ cắt lá dong, dặn chị em tôi rửa sạch. Bố và anh quét lại vôi cho căn nhà ngói năm gian cũ kĩ. Tôi từng nghĩ, cái nhà cũng sướng như chị em tôi, mỗi năm được thay áo mới một lần. Mẹ cười bảo, khi khá giả, mẹ sẽ may nhiều quần áo mới cho chúng tôi, không phải chờ đến Tết.
Tôi yêu những khoảnh khắc cả nhà ngồi làm bánh chưng. Bố dặn chúng tôi học cách làm từ mẹ, để mai này lớn lên có thể thay mẹ. Tôi lăng xăng nắm từng nắm đỗ nhỏ mẹ đã đồ chín để làm nhân bánh. Mẹ biết tôi thích đỗ bở, nên năm nào cũng chuẩn bị dư ra một ít để tôi nếm thử.
Tôi thèm quay lại những ngày cùng anh trai làm pháo. Những quả pháo từ giấy vở, sách cũ, và bột thuốc súng. Anh bảo, pháo nhà mình phải nổ to nhất, dài nhất mới oách. Một lần, hai anh em đặt pháo cối vào bếp nhà bác hàng xóm, châm ngòi. Pháo nổ, tro bay mịt mù, phủ kín cả vung nồi cám lợn. Mẹ tặng chúng tôi một trận roi đau điếng, nhưng Giao thừa năm ấy, pháo nhà tôi nổ rền nhất xóm.
Tôi thích những phút giây ngồi quanh nồi bánh chưng đỏ rực lửa. Bố lấy than hồng nhúng nước để nướng thịt hôm sau. Mẹ kể chuyện ngày xưa, cái Tết nghèo khổ hơn chúng tôi gấp vạn lần. Thời mẹ, có cơm trắng ăn đã là no đủ. Mẹ kể, ông ngoại ăn lợn đậu tận làng bên, cậu đi nhận phần về, nhưng vì đói quá đã ăn hết miếng lòng dồi. Về nhà, trên tay chỉ còn vài miếng thịt sống dính đầy bụi. Mỗi lần kể, nước mắt mẹ lại rưng rưng.
Tôi luôn khát khao những bữa cơm đoàn viên, có bố mẹ, anh chị. Không phải vì đồ ăn ngon, mà vì những ngày ấy, bố hiền lắm, không còn lạnh lùng ít nói. Bố kể về một năm đã qua, nhận xét từng đứa con, dặn dò chúng tôi phải biết quan tâm hơn đến mẹ. Không quát mắng, không cau có, chỉ có sự đầm ấm đầy yêu thương.
Những kỉ niệm Tết xưa vẫn hằn sâu trong kí ức tôi. Không ai muốn quay lại ngày xưa đói khổ, nhưng giữa dòng đời hối hả, tôi vẫn khát khao cái cảm giác ấm áp, chân thành của những ngày xa xưa ấy.
Hạnh Nguyễn


Nhiều gia đình trẻ hiện nay chọn du lịch vào dịp Tết Nguyên đán. Bạn bè tôi cũng không ít người săn vé, đặt tour, book phòng để chuẩn bị cho hành trình trải nghiệm Tết ở những miền đất khác. Đó là cách nói mĩ miều, còn đơn giản hơn, người ta gọi là “trốn Tết”. Họ trốn Tết vì nhiều lý do, trong đó không ít người cho rằng Tết ngày càng nhạt, không còn nhiều niềm vui như xưa. Có câu: “Vui như Tết”, đã Tết là phải vui. Vậy nên, ở đâu có niềm vui, ở đó là Tết. Du lịch mùa xuân cũng là cách thưởng thức Tết theo lối hiện đại.
Chúng tôi, những người trẻ lập nghiệp xa quê, coi Tết là dịp thuận lợi và ý nghĩa nhất để trở về. Bạn tôi từng so sánh chi phí du lịch Tết với việc về quê và nhận ra: ki cóp cả năm đôi khi không đủ cho vài ngày Tết quê, trong khi du lịch lại tiết kiệm hơn. Tiền có thể tính toán, nhưng nhiều giá trị khác làm sao đo đếm được? Rõ ràng, Tết nay không thể giống Tết xưa. Tết của thời hiện đại phải khác với Tết của những năm tháng cơ cực. Tết của người trưởng thành làm sao giống Tết của trẻ thơ? Có người tiếc nuối: “Cứ thế này, Tết cổ truyền sẽ mất”. Có người đề nghị bỏ Tết cổ truyền, chuyển sang Tết Tây để hòa nhập toàn cầu. Những ý kiến ấy không phải không có lý.
Tôi từng đọc đâu đó câu nói của một nhà thơ: “Bớt kêu ca và đòi hỏi mọi thứ phải theo ý mình. Muốn tìm gì, hãy nhìn từ bên trong trước đã.” Theo lẽ đó, mỗi chúng ta nên tìm Tết ở trong mình. Cuộc sống thay đổi từng ngày, nhưng có những giá trị khắc sâu vào tiềm thức không thể phai mờ. Bữa cơm đoàn viên chiều ba mươi ấm cúng trong mùi nhang Tết ngọt nồng, tiếng cười rộn rã chúc nhau những điều tốt đẹp, khoảnh khắc xí xóa hiềm khích để bắt tay hòa ái, hay nhìn cánh hoa thanh tân mà rạo rực hy vọng… Những điều ấy không phải là thói quen, mà là sự tươi mới trong thân thuộc, là nét văn hóa được gìn giữ giữa biến thiên cuộc sống.
Ngày đi học, đọc “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ, tôi thích thú vô cùng với màu Tết vừa cổ điển, vừa tưng bừng, đậm đà mà tươi mát. Khi tìm hiểu về Tết trong sáng tác của Vũ Bằng, tôi lại thấy nó trang nhã và phong tình. Rồi nhiều, nhiều màu Tết sống động khác được ghi lại bằng tất cả tình yêu, sự thiết tha trong huyết quản người cầm bút. Mỗi chúng ta đều có những tư vị Tết rất Việt Nam. Đọc “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính, không khó để nhận ra cái nhìn mới mẻ về Tết cổ truyền đầu thế kỷ XX. Dù phong tục, quan niệm ngày Tết đã thay đổi, nhưng tinh thần Tết thì chưa bao giờ nhạt. Còn biết đến cội nguồn, còn thiết tha sống và đón nhận khởi đầu, thì lo gì mất Tết.
Những đứa trẻ của chúng tôi vẫn háo hức chờ dịp cuối năm. Chúng thích được đi tàu hỏa về quê, trải nghiệm những chuyến tàu Tết rộn ràng, sân ga huyên náo, và cảnh vật bừng thức sau đông dài. Qua mỗi điểm dừng, chúng tôi cùng nhau đếm các ga còn lại. Hành trình dài nhưng không hề mệt mỏi. Những cuộc gọi gần ngày về của ba mẹ luôn là lời căn dặn tỉ mỉ, dù chúng tôi đã trưởng thành. Có lẽ, với người già như ba mẹ, Tết là nơi họ tìm thấy niềm vui qua những người trẻ mà họ trông ngóng với tất cả yêu thương.
…
Tôi tình cờ gặp lại những dòng này khi dọn máy tính sau một năm bận rộn. Trùng hợp thay, nó xuất hiện vào thời điểm Tết Nguyên đán cận kề. Một năm đầy biến động, đau thương khép lại. Những thử thách dữ dội của cuộc sống đã dạy ta bài học về sự thích ứng và trân trọng những điều giản dị. Tết này sẽ là Tết đầu tiên chúng tôi không được sum vầy bên ba mẹ. Có những nghẹn ngào khi ai đó hỏi: “Tết, có về quê không?”. Ba mẹ đã khéo chặn từ trước: “Đừng về! Một năm không về cũng không sao.”; “Đừng về! Nguy hiểm, phiền phức lắm đó con!”… Sau những lời nói quyết liệt ấy là bao nỗi nhớ thương, mong mỏi phải đè nén. Tôi thường lái câu chuyện sang hướng khác, nói những điều vui vẻ, lạc quan để tránh run rẩy trong lòng. Trong ký ức, hình ảnh những cuộn khói cố bay lên giữa mưa phùn, mẻ mứt gừng ngọt ngào mẹ đảo trên chảo gang, hay nồi lá xông nghi ngút chiều ba mươi… vẫn hiện về nức nở. Cuối ngày, ba thường ngồi hiên nhà, pha ấm trà, lặng lẽ nhìn ra đường xóm. Mẹ thì bận bịu sửa soạn bếp núc, loay hoay rồi ngẩn ngơ nhận ra: “Tết này, thiếu thật!”. Tôi đã nhiều lần hình dung cảnh ấy khi cân nhắc chuyện về Tết. Dù quyết định ở lại, lòng vẫn dùng dằng, chới với. Giữa tin tức dịch bệnh, nhìn lại năm qua, tôi hiểu rằng hạnh phúc lớn nhất của chúng tôi là sự bình an của người thân. Cũng có nghĩa, chúng tôi còn cơ hội để quây quần, để tìm lại những điều đã lỡ nhịp, và để bắt đầu lại. Suy nghĩ ấy nhen lên niềm hân hoan bé nhỏ. Chúng tôi sẽ cùng nhau đợi Tết, đón Tết, và cảm nhận điều thiêng liêng của Tết ở trong tim mình…
Hoàng Đào Ngọc Trinh


7. Tết Trong Tôi Là... - Những Khoảnh Khắc Đong Đầy Cảm Xúc
Những ngày giáp Tết ở quê tôi thường có mưa bụi lất phất, không khí lạnh lẽo bao trùm. Những hạt mưa li ti đọng trên ngọn cỏ, long lanh như hạt ngọc, rồi tích tụ thành giọt nước lớn rơi lộp bộp trên lá chuối sau vườn. Mưa bụi bay lơ lửng, bám vào tóc, quần áo, và má người đi sắm Tết, khiến họ bước nhanh hơn để tránh ướt và lạnh. Dù là những ngày cuối đông khắc nghiệt, cây cối vẫn tràn đầy sức sống, tươi tốt hơn để đón chào mùa xuân mới.
Tôi yêu không khí nhộn nhịp của những ngày giáp Tết ở quê. Chợ huyện là trung tâm mua sắm lớn nhất, đông đúc từ sáng sớm. Người từ khắp nơi đổ về, nói cười rôm rả, bàn luận đủ thứ chuyện trên đời. Chợ bày bán đủ loại hàng hóa, từ hoa giấy, tranh Tết đến thịt cá, rau quả, đáp ứng mọi nhu cầu của người đi chợ.
Càng gần Tết, không khí càng hối hả. Những con đường đều dẫn về trung tâm huyện, nơi chợ huyện nhộn nhịp nhất. Các bà, các mẹ, các chị tất bật mua sắm, trả giá râm ran. Chợ mở cửa từ sáng sớm đến chiều tối mới vãn người.
Trên gánh hàng của người bán là những sản vật nhà trồng được, nuôi được như gà, vịt, rau quả... để đổi lấy những thứ cần thiết cho Tết. Dù cuộc sống còn khó khăn, trong gánh hàng sắm Tết của những người vợ, người mẹ tần tảo luôn có lá dong gói bánh chưng, thịt lợn, đỗ xanh, và những bó hoa giấy nhuộm màu sắc rực rỡ để thờ cúng tổ tiên. Nếu dư giả, họ mới nghĩ đến mua quần áo mới cho con trẻ.
Tiếng lợn kêu eng éc vang lên đâu đó, báo hiệu nhà nào đó đang làm thịt lợn ăn Tết. Khắp làng, tiếng người nói lao xao, tiếng nước đổ xì xụp từ gầu tát ao, hay tiếng máy bơm xình xịch ầm ĩ. Lũ trẻ con thôn quê chúng tôi háo hức xem người ta làm thịt lợn, rồi chạy ra ao xem tát cá. Dù lạnh giá, nhiều đứa vẫn lội xuống ao “hôi” những con cá sót lại, khuôn mặt lấm lem bùn đất nhưng ánh lên niềm vui sướng.
Tết đang đến gần, nhịp sống hối hả hơn. Những con đường làng được quét dọn sạch sẽ, tường cổng được quét vôi trắng, nhà cửa được dọn dẹp gọn gàng. Cây nêu được dựng lên, cung vôi trắng vẽ trên sân để xua đuổi tà ma. Đồ thờ cúng được lau chùi, bàn thờ được trang hoàng chỉn chu.
Ai cũng cảm nhận được Tết đang đến qua quang cảnh làng quê tươi mới, qua âm thanh rộn ràng của bước chân người chuẩn bị Tết, và qua hương vị thơm lừng từ những bếp lửa đang nấu nướng. Tết còn là dịp sum họp với người thân. Những người đi làm xa trở về, mang theo niềm vui và nỗi nhớ nhà sau những tháng ngày vất vả nơi đất khách.
Nhưng không phải ai cũng may mắn được về quê ăn Tết. Nhiều người phải ngậm ngùi đón Tết tha hương, nhớ về mẹ già nơi quê nhà đang mỏi mòn chờ con. Đau xót biết bao khi có người trở về quê chỉ để thắp nén hương khóc mẹ đã khuất.
… Tết năm ấy, mẹ tôi vui lắm vì anh trai tôi, sau bao năm xa cách, cuối cùng cũng về sum họp cùng gia đình. Người đi xa mấy ai hiểu hết nỗi nhớ thương của những người mẹ, người cha mong ngóng con về trong ngày Tết.
Mùa xuân như tràn ngập khắp nơi, len lỏi vào từng ngõ xóm, lũy tre, con đường, bờ ao, góc sân, và những mái tranh nghèo của thôn quê yêu dấu - nơi tôi đã sống những năm tháng tuổi thơ đầy kỷ niệm ngọt ngào.
Một trong những công việc không thể thiếu để đón Tết là gói và nấu bánh chưng. Công đoạn chuẩn bị khá nhiều: mua lá dong, lá chuối, gạo nếp, thịt lợn, đỗ xanh, lạt buộc, củi và nồi nấu. Gạo nếp và đỗ xanh phải ngâm nước, lá dong và lá chuối rửa sạch, phơi khô. Có nơi người ta dùng khuôn lá dừa hoặc khuôn gỗ để bánh vuông vức hơn.
Người dân quê tôi thường trải chiếu ngoài sân để gói bánh, luộc bánh ngoài trời cho rộng rãi. Cảnh nhà nào cũng quây quần gói bánh chưng nhộn nhịp, vui tươi trong những ngày giáp Tết là hình ảnh khó quên với những người xa quê.
Chiều 30 Tết, có năm nhà tôi nấu bánh chưng, thường do chú rể tôi gói giúp. Tôi thích thú đạp xe lên nhà cô chở bánh về. Ngon nhất là miếng bánh chưng vừa luộc xong, hương vị thơm ngon chỉ một năm mới có một lần, mãi mãi tôi không quên.
Những năm bố mẹ tôi gói bánh tại nhà, tôi háo hức đứng xem chú rể và bố gói bánh, chờ đợi bố bắc bếp luộc bánh giữa sân. Đêm 30 Tết, tôi thức thâu đêm, ngồi bên bếp lửa bập bùng, nghe tiếng bánh sôi sùng sục, chờ đợi 10 đến 12 tiếng đồng hồ để bánh chín. Thời đó, người ta thường gói bánh sáng 30 Tết, chiều luộc, và gần nửa đêm bánh chín để bày lên bàn thờ cúng giao thừa.
Những năm thơ ấu của tôi không có tivi hay radio. Mọi người chỉ chờ đợi thời khắc giao thừa thiêng liêng, kết thúc năm cũ và bắt đầu năm mới đầy hy vọng. Sau này, bố mẹ tôi mua được chiếc radio cũ hiệu Sanyo, từ đó tôi mới được nghe những chương trình yêu thích như "Tiếng Thơ", "Câu chuyện cảnh giác", và tiếng chúc Tết của Chủ tịch nước đúng đêm Giao thừa.
Tết là của ai? Có lẽ không phải của người lớn, vì họ phải lo toan vất vả để chuẩn bị Tết cho gia đình. Tết thực sự là của trẻ con, những đứa trẻ như chúng tôi mong chờ Tết để được nghỉ học, vui chơi thỏa thích, mặc quần áo mới, nhận lì xì, và ăn những món ngon chỉ có dịp Tết.
Người lớn thường nói "Hẹn đến Tết nhé!" vì Tết là cột mốc thời gian cho những dự định, lời hứa. Người ta dành dụm cả năm để mua sắm, làm việc gì đó, hay trả nợ, vì không ai muốn năm mới vẫn còn nợ.
Khi mẹ còn sống, nhiều người hạnh phúc khi được về bên mẹ trong ngày Tết. Nhiều người khác xót xa nhớ về những Tết xưa, khi còn được sum họp bên mẹ trong giây phút chuyển giao năm cũ và năm mới.
Cuộc sống luôn thay đổi, Tết bây giờ khác xưa nhiều. Người ta mua sắm online, đặt hàng qua mạng, thậm chí đi du lịch thay vì sum họp gia đình. Tết đủ đầy hơn, nhưng vẫn thiếu đi hương vị thực sự của Tết cổ truyền xưa.
Mỗi năm về quê ăn Tết, nhìn lại cảnh xưa đã đổi khác, tôi lại thấy cay cay nơi khóe mắt khi nhớ về những người thân đã khuất, nhớ về những cái Tết tuổi thơ đầy ắp tình thương và kỷ niệm. Tôi nhớ mùi khói bếp nấu bánh chưng, nhớ mùi dưa hành phơi nắng, nhớ cảnh cả nhà quây quần bên mâm cỗ tất niên, và khoảnh khắc giao thừa thiêng liêng bên người thân. Tất cả vẫn mãi trong tâm trí tôi, những kỷ niệm về Tết xưa, nhớ đến nao lòng!
Tản văn: Trần Trung


8. Phong vị tết Hà Thành
Tết Hà Nội mang một nét đẹp riêng, với những con phố cổ rực rỡ sắc đỏ của đèn lồng và hoa đào. Người dân Thủ đô náo nức đi chợ hoa Quảng Bá, thưởng thức bánh tôm Hồ Tây, và tham gia các lễ hội truyền thống như đền Ngọc Sơn hay Văn Miếu. Tất cả tạo nên một không gian Tết đầy ắp kỷ niệm và văn hóa.
Khi hương xuân chạm ngõ, cánh gió nao nao trong làn mưa bụi lất phất bay, những ký ức thấm đẫm hương vị Tết xưa lại chầm chậm quay về trong tâm trí tôi. Với tôi, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên tại Hà Nội trong thời bao cấp, Tết Hà thành luôn có phong vị riêng, để lại dấu ấn sâu đậm khó phai.
Cứ độ sau rằm tháng Chạp, mẹ của tôi đã bắt đầu rậm rịch, lo toan chuẩn bị dần cho Tết. Khi nhớ về Tết thời bao cấp, tôi luôn ấn tượng với các gian hàng bách hóa lấp lánh đèn hoa bán túi quà Tết theo tiêu chuẩn. Mẹ tôi thường đi xếp hàng từ sáng sớm để mua túi quà Tết. Chiều muộn, khi mẹ trở về, anh em tôi sán vào, ngắm nghía từng món đồ mẹ dỡ ra. Này là hộp mứt Tết màu đỏ vẽ hình hoa đào, này là vài gói kẹo mềm, chai rượu cam hoặc chanh, gói thuốc lá Thủ đô bao bạc. Ngoài ra, còn có đầy đủ miến, bóng bì, hạt tiêu, mì chính... Chao ơi, chỉ một túi hàng mẹ mua theo tiêu chuẩn, mà sao tôi đã thấy Tết đang hiện hữu trong nhà.
Tôi còn nhớ, mỗi khi giáp Tết, các chị thanh nữ thường rủ nhau mua khế, cà chua, mận, táo, gừng, cà rốt về làm mứt. Đây cũng là dịp để các chị thể hiện tài nữ công gia chánh. Các chị tỉ mẩn chế biến theo những công thức riêng để có những món mứt hương vị dịu dàng, chua ngọt mời khách ngày Tết. Có những buổi tối, ở sân khu tập thể nhà tôi, các chị cùng “sên” mứt, lũ trẻ chúng tôi sán vào xem. Thi thoảng lại được các chị cho “nếm”, mỗi loại một vị thật là vui.
Tết Hà thành trong ký ức của tôi còn in dấu những chuyến tàu điện ngày cuối năm. Gần Tết nên chuyến tàu nào cũng chật như nêm. Mọi người hối hả mang hàng hóa đến chợ bán cho kịp trước Tết. Người đi chợ cũng náo nức mua sắm. Có khoảng thời gian xa nhà, giấc mơ tôi vẫn còn vọng tiếng “leng keng” của những chuyến tàu điện sớm lướt qua trên phố.
Hăm ba tháng Chạp, các nhà náo nức cúng ông Công ông Táo. Tôi vẫn nhớ cảm giác thích thú khi được ngồi sau xe đạp của anh trai chiều cuối năm lên hồ Tây thả cá chép, tiễn ông Công ông Táo về trời. Anh trai tôi đỗ xe sát mép hồ rồi khẽ khàng đổ cá xuống hồ. Chúng tôi thường đứng dõi theo những chú cá chép vàng ẩn hiện nương theo sóng hồ Tây bơi xa mãi trong chiều cuối năm.
Cận Tết, khu chợ hoa cũ đất Hà thành trên mạn phố cổ bắt đầu họp. Các cành đào bích, đào phai đất Nhật Tân, Nghi Tàm ngậm nụ chúm chím trong mưa xuân, quất Tứ Liên căng mọng chín vàng khoe sắc trên phố Hàng Lược. Phố Hàng Khoai thường bán các loại hoa cổ truyền như violet, lay ơn, thược dược... Phố Hàng Mã bán hoa giấy, đèn lồng, bóng bay và các thứ trang hoàng nhà cửa ngày Tết. Quá bộ ra phố Hàng Rươi, ta sẽ bắt gặp các hàng bán đồ thờ cũ, đồ đồng được bày bán ngay trên vỉa hè. Những người lớn tuổi rảnh rang thường dạo bước ra ngã năm Cống Chéo ngắm nghía, chọn mua các loại sành sứ, tiểu cảnh, non bộ mang về trang trí nhà.
Trong chuỗi ngày chuẩn bị Tết, việc gói bánh chưng luôn khiến mọi người háo hức hơn cả. Các bà các mẹ rủ nhau rửa lá dong, đãi đỗ, vo gạo ở máy nước công cộng. Những bàn tay cóng đỏ trong giá lạnh nhưng mọi người vẫn trò chuyện thật rôm rả. Tối đến, bố tôi ngồi tỉ mẩn tước lá, chẻ lạt trong khi mẹ đồ đỗ xanh, ướp thịt gói bánh. Mùi hạt tiêu, nước mắm ngon ướp với thịt ba chỉ thơm nức. Bố tôi gói bánh nhanh và chắc tay, chỉ một loáng đã xong. Bánh gói xong được xếp vào nồi to và bắc lên bếp đun. Nồi bánh chưng sôi “lịch sịch... lịch sịch” phả hương thơm của gạo nếp, lá dong ra không gian xunh quanh. Các bà các mẹ thường “dúi” vào bếp than ít khoai sắn cho trẻ con nhấm nháp. Đêm luộc bánh chưng, cả khu tập thể vui rộn ràng. Niềm vui theo vào cả trong giấc mơ của những đứa trẻ như tôi.
Sáng ba mươi tháng Chạp, khi việc dọn dẹp nhà cửa đã hoàn tất, tôi thường được mẹ cho đi chợ hoa. Dạo một vòng, mẹ tôi chọn cành đào phai cánh kép. Cành đào tuyệt đẹp với hoa và nụ san sát kề bên nhau, e ấp khắp các cành chi, cành tăm. Sau đó, mẹ tôi thong thả chọn mua các loại hoa cổ truyền như: Violet tím nhạt mảnh mai, thược dược rực rỡ, đồng tiền bông đơn đỏ tươi, bông kép hồng nhạt, lay-ơn cứng cáp, hoa bướm dịu dàng. Những đóa hoa được mẹ cắm bên nhau như khu vườn xuân khoe sắc trong phòng khách. Với người Hà thành, thấy bình hoa cổ truyền là thấy Tết, thấy xuân.
Chiều tất niên, các gia đình chuẩn bị mâm cỗ dâng gia tiên với những món ăn được chế biến cầu kỳ, tinh tế. Cách thức bày biện mâm cỗ thể hiện tài vén khéo của người phụ nữ trong gia đình. Bánh chưng xanh mướt bên xôi gấc đỏ tươi, gà luộc ánh mỡ vàng óng, canh măng khô nấu chân giò, nem rán giòn, giò chả cắt “quả trám”, dưa hành, xào thập cẩm đa sắc màu, canh bóng nấu thả độc đáo... Tất cả nhẹ đưa hương thơm ngon, thanh khiết. Mâm cỗ Tết không chỉ hấp dẫn về hương vị mà còn trở thành nét văn hóa độc đáo, thể hiện tấm lòng thành kính của con cháu dâng lên ông bà tổ tiên.
Sau bữa cơm tất niên, mẹ tôi lại tất tả làm gà, đồ xôi, nấu chè cho mâm cúng giao thừa. Hình ảnh bố thành kính lễ quan Tân niên giờ phút giao thừa luôn in sâu trong tâm trí của tôi. Dường như, khoảnh khắc đó, bao điều hy vọng tốt đẹp trong năm mới được ông gửi gắm vào lời khấn nguyện.
Sáng mồng một hay còn gọi là ngày “Chính đán”, anh em tôi súng xính trong quần áo mới, được ông bà, bố mẹ mừng tuổi. Cho đến sau này, tôi vẫn mãi nhớ niềm hân hoan khi được nhận những đồng tiền mừng tuổi mới tinh ngày đầu năm.
Năm tháng trôi, mỗi khi chạm Tết, tôi thao thiết nhớ hương nước mùi già mẹ nấu chiều cuối năm, nhớ hè phố nhuộm đầy xác pháo tươi hồng, nhớ hương trầm ngát thơm quyện cùng khói pháo thơm nồng và hương các loài hoa lan tỏa dịu dàng trong gió xuân… Phong vị Tết Hà thành mãi neo trong miền ký ức của tôi bình yên mà sâu sắc, thân thương đến lạ.
Vy Anh


9. Những ngày áp Tết
Sáng thức dậy trời se se lạnh, mưa lây phây như rắc bụi trên những phố dài, ngang qua ngõ nhà ai chợt nghe tiếng hát đầy không khí mùa xuân vọng qua ô cửa đã nhuốm màu thời gian “…rồi dặt dìu mùa xuân theo én về / mùa bình thường mùa vui nay đã về / mùa xuân mơ ước ấy….” đó là ca từ bài hát “Mùa xuân đầu tiên” của nhạc sĩ Văn Cao luôn làm lòng người lắng lại, bình yên và dâng đầy cảm xúc trong những ngày áp tết.
Phố ngoài kia những ngày cuối năm đã bắt đầu tưng bừng, hối hả, đất trời vạn vật nở hoa, mùa xuân đã đến thật gần trên từng búp lá non tơ. Cuối năm ai cũng thấy mình bận rộn hơn, vội vã hơn trên từng khuôn mặt. Ai cũng mong chờ một năm mới tốt đẹp hơn, an yên hơn. Lòng luôn tự hỏi lòng, mình đã làm được gì và chưa làm được gì trọn vẹn trong một năm đầy biến động đi qua. Những vui buồn, được mất của thiên tai, của đồng loại cũng sẵn lòng gác lại một bên mỗi khi tết đến, xuân về.
Những ngày áp tết ai cũng muốn lòng mình thanh thản, bình yên bên gia đình và những người thân yêu. Ai cũng muốn dành cho mình một khoảng lặng để ngồi ngắm phố phường, ngắm từng dòng người, dòng xe qua lại, ngắm từng nụ hoa đào còn lấm tấm hơi sương. Mùa xuân đã ngập tràn trên phố, mùi tết đã bắt đầu phảng phất trong gió xuân, mưa bụi.
Chẳng còn mấy ngày nữa là đến ngày ông công, ông táo về trời. Trong tâm thức mỗi người, đây cũng là một trong những ngày cuối năm rất quan trọng, nhà nào cũng chuẩn bị mâm cơm cúng tiễn ông Táo một cách long trọng nhất có thể. Nhà nào cũng cúng cá chép và mong cá chép hóa rồng để làm phương tiện cho Táo quân cưỡi về trời.
Sau ngày ông Táo là những ngày tảo mộ ở quê. Những người đi xa thì về sớm, những người ở làng thì tảo mộ vào chiều 30 tết, cả cánh đồng nghi ngút khói hương, người nhổ cỏ, chặt cây, người quét dọn, tu sửa mộ phần cho ông bà, cha mẹ và những người thân sao cho sạch sẽ, đẹp đẽ, đồng thời thắp hương cúng khấn mời các cụ về sum họp, ăn tết cùng con cháu. Tảo mộ cũng là một việc làm cuối năm đầy ý nghĩa đã trở thành phong tục truyền thống cho con cháu nhằm tỏ lòng biết ơn những bậc sinh thành, về cội nguồn dòng tộc của mình.
Hoài niệm và kí ức luôn mang đến cho con người chật đầy những cung bậc cảm xúc khác nhau. Tôi nhớ lắm những đêm 30 thủa còn thơ nhỏ bên ngôi làng nằm ven bờ sông Đáy, tôi nhớ mùi hương trầm, huệ trắng trong những đêm cuối năm mưa bụi lây phây, nhớ mùi vỏ trấu nếp âm ỉ cháy bên nồi bánh chưng xanh khói cay xè mắt, nhớ chương trình tiếng thơ được phát sóng qua chiếc đài radio cũ kỹ của nội. Tôi nhớ mùi nhang trầm đen mỗi lần nội thắp trên bàn thờ gia tộc. Mùi nhang đen cứ lẩn khuất đâu đây mà sau này đi xa tôi không tìm lại được. Kí ức luôn là một điều gì đó thật hiện hữu mà khó gọi thành tên và cũng không bao giờ phai mờ trong mỗi người chúng ta.
Một mùa xuân mới lại sắp về, những giai điệu về mùa xuân đang ngân dài trên phố nơi mỗi bước chân đi, ta nghe đâu đây những giọt mưa xuân đang rơi tí tách trên cành đào hé nụ và lâng lâng đắm chìm trong những ca từ "lắng nghe mùa xuân về" của nhạc sĩ Dương Thụ "giọt mưa nào rơi thật êm trên phố phường / mùi hương nào thơm thật thơm trong gió thoảng / và anh đợi em, đợi em như đã hẹn...".
Vâng! Những ngày áp tết đang đến thật gần.
Đinh Tiến Hải


10. Tết của mọi nhà
Có thể nói cái Tết là một phần không thể thiếu được trong văn hóa người Việt. Mọi cái đều dành cho ngày Tết. Những câu nói như “có đói cũng ngày Tết, có hết cũng ngày mùa”, “vui như tết” đã thể hiện phần nào cái no ấm đủ đầy, sự vui tươi trong dịp tết. Người giàu có sắm sửa rình rang, người nghèo cũng phải lo đủ bữa cơm tươm tất hơn trong ngày Tết. Dù cuộc sống bao nhiêu thay đổi nhưng ngày Tết trong lòng mỗi người Việt vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa. Nó là dịp đoàn tụ gia đình, là lúc mọi người tạm quên hết những vất vả lo toan để mong chờ và hy vọng cho một năm mới tươi sáng hơn. Trong sự vần xoay của đất trời, cứ năm hết là Tết đến. Dù có mong chờ hay không thì người ta cũng chuẩn bị mọi thứ cho Tết theo khả năng của mình.
Tuổi thơ vô tư chưa biết đến sự khắc nghiệt của thời gian, hồn nhiên mong chờ tết với những thích thú của riêng mình. Dù sống trong no ấm đủ đầy hay cảnh nhà thiếu trước hụt sau, trẻ em cũng có những lý do để mong chờ tết. Trẻ con nhà có điều kiện thì chờ Tết đến để có những bộ quần áo thời thượng, được nhận lì xì khủng, được đi du lịch đây đó với gia đình. Trẻ nghèo thì chỉ mong chờ Tết đến để được mẹ sắm cho bộ quần áo mới, được ăn những bữa ăn ngon hơn, được những ngày rảnh rang hơn để ba mẹ dẫn đi thăm bà con họ hàng. Những cái tết của một thời còn khó khăn, phương tiện di chuyển chỉ là đi bộ hoặc xe đạp, nhà thì con đông, những đứa trẻ cũng hiếm khi được cha mẹ dẫn đi mà chỉ túm tụm cùng nhau và cũng với những bạn bè hàng xóm dắt nhau ra đầu ngõ để ngắm người qua lại chơi xuân. Những bộ quần áo đơn sơ được “may trừ hao” rộng thùng thình nhưng mặc vào cứ tưởng như mình đã lớn hơn và đẹp lên rất nhiều. Bộ đồ, đôi dép, cái mũ được cất kỹ đến sáng mồng một mới đem ra, mặc rồi nhìn nhau cười thích thú. Có thể nói không ở tuổi nào mà cái Tết lại được mong chờ và đón nhận vô tư như với tuổi thơ.
Những người đã làm cha làm mẹ thì mong chờ tết cùng những nỗi lo toan. Những cái Tết mấy mươi năm về trước thường được chuẩn bị từ rất sớm. Tháng mười, sau khi cắt lúa xong, những người mẹ quê chắt bóp bán bớt một ít sau khi đã tính toán đủ số lúa ăn cho đến mùa để may cho con manh áo tấm quần. Mọi thứ đều phải tính toán, tích cóp, nâng niu từng chút một. Nỗi lo lắng là làm sao để những vườn rau vườn hoa có thể kịp tết để bán được thêm chút tiền mà mua thêm chút đồ đạc đón tết. Con heo còi nuôi trong chuồng, bầy gà để dành tết liệu có lớn kịp để có mâm cơm tươm tất mà cúng ông bà, cho con cháu có được những bữa ăn ngon hơn. Người buôn bán nhỏ những ngày giáp tết lại càng tất bật hơn với đôi quang gánh tất tả, mua chợ trên, bán chợ dưới, nhặt nhạnh thêm từng chút để con có thêm cái bánh cái kẹo mà ăn tết với người ta. Mà Tết thì không phải chỉ có ăn, có mặc. Người sống sao thì người chết cũng vậy, dọn mồ mả, lo lắng bàn thờ tổ tiên ông bà là một việc không thể thiếu được. Một năm chỉ có một lần tết, bàn thờ phải ấm cúng trang trọng thì ông bà mới về ăn tết và phù hộ cho con cháu mạnh khỏe bình an trong năm mới.
Tết với những sinh viên đi học xa nhà và những người đi làm ăn xa bắt đầu vào khoảng cuối tháng chạp. Những chuyến xe cuối năm về quê lúc nào cũng đông đúc, người người chen chúc nhau. Ai cũng muốn được về sớm để dọn dẹp, đón tết với gia đình. Nhưng cũng có những sinh viên nghèo, những người vì hoàn cảnh công việc không thể lên những chuyến xe cuối năm để về nhà thì cái tết dường như không còn nhiều ý nghĩa. Với những gia đình mà con cháu không về đủ thì dịp tết cũng không còn trọn vẹn niềm vui. Với những gia đình nhỏ mà ông bà cha mẹ vẫn còn thì tết là dịp để tụ hội và cùng nhau ôn lại những kỷ niệm, cùng nhau ăn những bữa ăn gia đình ấm cúng, để những kỷ niệm còn mãi tươi đẹp, để rồi năm tháng dần trôi, khi cha mẹ đã dần khuất núi thì nỗi nhớ thương cứ còn mãi không nguôi. Từng thế hệ cứ tiếp nối nhau như vậy và truyền thống ăn tết của người Việt luôn được bảo tồn. Dù cách xa về không gian, dù cuộc sống nhiều thay đổi, dù có những hoàn cảnh công việc bắt buộc phải xa nhà, xa quê, nhưng mỗi khi cành mai vàng, cành đào hồng thắm khoe sắc, lòng mỗi người dân Việt đều không khỏi nao nao cho một cái Tết cân kề.
Mỗi năm một lần, khi những tờ lịch dần được gỡ hết thì cái tết lại đến. Dù trong hoàn cảnh nào thì cái tết cũng có một ý nghĩa đặc biệt với người Việt. Một năm cũ đi qua, một năm mới đến để người ta biết mình đã làm được những gì và có những kế hoạch, những hy vọng mong chờ cho một năm tiếp theo. Phong tục đón Tết làm người Việt trở nên gần nhau trên nhiều phương diện. Tết không của riêng ai, Tết của mọi nhà!
Ai Nguyen

