Top 10 Truyện cổ tích ý nghĩa nhất về ngày Tết
1. Sự tích cây nêu ngày Tết
Ngày xưa, Quỷ chiếm hết đất đai, bắt Người làm thuê và áp đặt luật lệ hà khắc: “ăn ngọn cho gốc”. Người trồng lúa nhưng chỉ thu được rạ, còn Quỷ cười đắc ý. Phật từ phương Tây xuất hiện, dạy Người trồng khoai lang. Quỷ vẫn áp dụng luật cũ, nhưng lần này, Người thu hoạch được củ khoai đầy nhà, còn Quỷ chỉ còn lại dây và lá. Quỷ tức giận, đổi luật thành “ăn gốc cho ngọn”. Phật lại bảo Người trồng lúa, và một lần nữa, Quỷ thất bại. Khi Quỷ đổi luật thành “ăn cả gốc lẫn ngọn”, Phật dạy Người trồng ngô, khiến Quỷ cay đắng nhìn Người thu hoạch bội thu.
Quỷ quyết định lấy lại đất, nhưng Phật giúp Người mua một miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa. Quỷ tưởng lợi, nào ngờ Phật dùng phép thuật khiến cây tre cao vút, bóng áo che khắp mặt đất. Quỷ không còn đất, đành chạy ra biển Đông, trở thành “Quỷ Đông”. Quỷ tức giận, kéo quân về cướp lại, nhưng Phật và Người dùng máu chó, tỏi, lá dứa và vôi bột đánh bại chúng. Cuối cùng, Quỷ xin Phật cho phép mỗi năm được về đất liền vài ngày thăm mộ tổ tiên.
Từ đó, vào dịp Tết Nguyên Đán, người ta trồng cây nêu, treo khánh đất, lá dứa, và rắc vôi bột để xua đuổi Quỷ. Câu ca dao “Cành đa lá dứa treo cao, Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà” ra đời từ đó, nhắc nhở về truyền thống đuổi Quỷ trong ngày Tết.


2. Sự tích hoa Mai vàng
Ngày xửa ngày xưa, có một cô bé giàu lòng yêu thương, không chỉ yêu gia đình mà còn yêu cả ba ông Táo đá núi. Một lần, thương ông Táo chịu khói lửa, cô dội nước lên đầu ông, khiến ông hiện ra và giải thích rằng lửa càng nóng, ông càng vui. Từ đó, cô không dội nước nữa nhưng thỉnh thoảng ông Táo vẫn hiện lên trò chuyện. Một hôm, ông Táo nói muốn cưỡi cá chép về trời, cô bé liền bắt cá chép biếu ông. Đêm 23 Tết, ông Táo cưỡi cá chép bay lên trời, để lại niềm tin về sự tích cá chép đưa ông Táo.
Cô bé còn là một cô gái mạnh mẽ, theo cha đi săn thú dữ. Khi một con quái đầu người mình trăn xuất hiện, cô cùng cha đi diệt quái. Sau trận chiến ác liệt, cô hy sinh nhưng được thần Đất giúp hóa thành chim vàng. Ông Táo xin trời cho cô sống lại mỗi năm 9 ngày vào dịp Tết. Cô trở về trong chiếc áo vàng rực rỡ, mang niềm vui đến gia đình. Sau khi cha mẹ mất, cô hóa thành cây Mai Vàng, nở hoa vàng rực mỗi dịp Tết, tượng trưng cho sự may mắn và xua đuổi tà ma.
Ngày nay, cây Mai Vàng trở thành biểu tượng của Tết miền Trung và Nam Bộ, mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi nhà.


3. Sự tích hoa đào
Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, Bắc Việt, có một cây hoa đào khổng lồ, cành lá sum suê che phủ cả một vùng rộng lớn. Trên cây đào ấy, có hai vị thần tên Trà và Uất Lũy trú ngụ. Họ bảo vệ dân làng khỏi ma quỷ, mang lại cuộc sống yên bình. Ma quỷ sợ hãi quyền năng của hai vị thần nên cũng khiếp đảm trước cây đào. Chỉ cần nhìn thấy cành đào, chúng đã vội bỏ chạy.
Nhưng cứ đến cuối năm, hai vị thần phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng, để lại khoảng trống cho ma quỷ hoành hành. Để xua đuổi tà ma, dân làng đã nghĩ ra cách bẻ cành đào về cắm trong nhà. Ai không bẻ được cành đào thì dùng giấy hồng điều vẽ hình hai vị thần dán trước cửa. Từ đó, tục lệ này trở thành nét đẹp văn hóa mỗi dịp Tết.
Ngày nay, hoa đào vẫn là biểu tượng không thể thiếu trong ngày Tết, mang lại sự ấm cúng và niềm hy vọng về một năm mới an lành, hạnh phúc.


4. Sự tích hoa Thuỷ Tiên
Ngày xưa, có một ông phú hộ trước khi qua đời dặn bốn người con chia đều gia tài. Tuy nhiên, ba người anh tham lam chiếm phần lớn, chỉ để lại cho người em út một mảnh đất cằn cỗi. Buồn bã, người em ngồi khóc bên mảnh đất thì bà Tiên hiện lên, tiết lộ rằng mảnh đất ấy chứa kho báu là những mầm hoa quý. Đến mùa xuân, hoa nở trắng xóa, tỏa hương thơm ngát. Người em đặt tên loài hoa ấy là Thủy Tiên, bán được giá cao và trở nên giàu có hơn cả các anh.
Hoa Thủy Tiên từ đó trở thành biểu tượng của tài lộc và may mắn. Mỗi dịp Tết, người ta chăm sóc hoa để nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang lại sự sung túc và thịnh vượng cho năm mới.


5. Sự tích cúng gà đêm giao thừa
Theo phong tục Việt Nam, mâm cỗ cúng giao thừa luôn có một con gà trống hoa luộc, miệng ngậm bông hồng đỏ, tượng trưng cho sức khỏe và sự tinh khiết. Truyền thuyết kể rằng, khi Ngọc Hoàng tạo ra mặt đất, Người sai mười mặt trời chiếu sáng, nhưng quên thu lại khiến mặt đất khô cằn. Một dũng sĩ bắn rụng chín mặt trời, mặt trời cuối cùng sợ hãi trốn biệt. Loài vật cố gọi mặt trời nhưng chỉ có tiếng gáy của gà trống mới khiến mặt trời quay lại, mang ánh sáng trở lại.
Đêm giao thừa, người Việt cúng gà trống với hy vọng gà sẽ đánh thức mặt trời, mang lại may mắn và ấm no cho năm mới. Gà trống hoa được chọn vì nó tượng trưng cho sức mạnh và sự tinh khiết. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều gia đình không còn hiểu ý nghĩa sâu xa này, thay thế gà bằng thịt lợn, làm mất đi giá trị văn hóa truyền thống.
Cúng gà đêm giao thừa là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ, tránh để thời cuộc làm mai một truyền thống quý báu của dân tộc.


6. Sự tích ông Táo về Trời
Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo sống với nhau nhiều năm mà không có con. Một lần cãi vã, người chồng đánh vợ, khiến cô bỏ nhà đi. Cô kết duyên với một người thợ săn, còn người chồng cũ hối hận, đi tìm vợ nhưng không gặp, phải sống lang thang. Một hôm, anh đến xin ăn đúng nhà vợ cũ. Nhận ra chồng cũ, cô thương tình mời ăn uống no say. Khi chồng mới về, cô vội giấu chồng cũ trong đống rơm. Người chồng mới đốt rơm để thui thú săn, vô tình thiêu chết chồng cũ. Đau xót, cô nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới cũng tự vẫn. Ngọc Hoàng thương tình, hóa ba người thành Táo quân, giao nhiệm vụ báo cáo việc nhân gian mỗi năm.
Từ đó, người Việt có tục cúng cá chép tiễn ông Táo về trời vào ngày 23 tháng Chạp, mong ông báo cáo điều tốt lành cho gia đình.


7. Sự tích tục đốt pháo và rắc vôi bột ngày tết
Ngày xưa, có hai hung thần tên Na-Á và vợ thường quấy nhiễu dân làng, đặc biệt vào những ngày cuối năm khi các thần phù trợ về trời chầu Ngọc Hoàng. Hai hung thần này sợ ánh sáng và tiếng ồn, nên các thần đã dạy dân làng đốt pháo và thắp đèn sáng để xua đuổi chúng. Từ đó, tục đốt pháo và rắc vôi bột trở thành phong tục ngày Tết, giúp trừ tà ma và mang lại bình an.
Ngoài ra, tục vẽ cung tên bằng vôi bột trước cửa nhà cũng bắt nguồn từ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Khi dịch bệnh hoành hành, một vị thần mách bảo vua dùng vôi bột để xua đuổi ma quỷ, giúp dân làng thoát khỏi tai họa. Từ đó, tục lệ này được lưu truyền qua nhiều đời, trở thành nét đẹp văn hóa trong ngày Tết của người Việt.


8. Sự Tích Bánh Chưng Cặp
Ngày xưa, có hai vợ chồng, vì mỗi người một tính nên ít khi sống hoà thuận, anh chồng thì nghiện ngập đủ thứ. Ngoài những lúc ăn uống đàn đúm ra, anh ta hết chơi chim khướu lại đến chim mồi. Có lần gặp con chim mồi đẹp anh ta mang cả con trâu đi để đổi. Mỗi lần đi chọi được con chim nào về anh ta lại thịt để nhắm rượu. Quanh năm suốt tháng anh ta toàn bày những trò ăn chơi như vậy, ít khi ngó ngàng tới công việc làm ăn. Hoạ hoằn lắm, sau khi người vợ phát hết những cây nhỏ của đám nương, anh ta mới giúp được đôi buổi để hạ những cây to.
Trong khi đó người vợ lại vụng về không biết khuyên bảo chồng. Mỗi lần người chồng đi ăn uống say sưa đâu về chị lại thường gắt gỏng không tiếc lời. Vào một năm nọ, khi ngày Tết đã gần đến, làng bản ai ai cũng tấp nập sắm sửa để đón Tết. Con gái ban đêm may cắt những bộ quần áo mới. Ban ngày lên rừng kiếm củi, cắt lá dong, rọc lá chuối, ra suối đãi gạo, rửa rau. Trai làng thì sửa sang nhà cửa quét dọn bàn thờ tổ tiên. Nhà nào nhà nấy đúng là “bận tíu tít như ngày Tết”.
Riêng chỉ có vợ chồng nhà họ vẫn chưa sắm sửa được tí gì. Số là ngày hai mươi chín Tết anh chồng vừa đi uống ở đâu về say mèm, người vợ lại chửi mắng không ngớt. Thế là một cuộc cãi lộn giữa hai vợ chồng lại nổ ra.
Thấy vậy đứa con gái nhỏ len lén đến gần mẹ hỏi:
– Mẹ ơi! Sao nhà ta chưa gói bánh chưng hở mẹ?
Người mẹ quắc mắt nhìn con trả lời:
– Bánh à? Lấy đâu ra thịt mà làm nhân!
Lúc đó thằng con trai lớn cũng vừa đi chơi đâu về hớt hải hỏi bố:
– Bố ơi! Nhà ta chưa có thịt lợn à? Khắp bản người ta thịt cả rồi.
– Lợn mình bằng con chuột. Thịt lúc nào mà chẳng được.
Mẹ mày có chăn lợn bao giờ đâu mà có lợn to!
Tuy đang giận vợ, nhưng khi các con hỏi nào bánh nào thịt anh ta cũng động lòng. Nên ngay sau đó anh ta liền sang nhà hàng xóm ăn trộm một đùi lợn mang về. Chiều tối anh ta bỏ sang nhà bạn uống rượu. Bởi quá say anh ta không thể nào về đến nhà được nữa, nằm vật bên bìa rừng. Người qua đường thấy vậy vội đến bảo chị vợ đi dìu chồng về.
Người vợ đang sẵn bực dọc trong lòng liền buông lời nguyền rủa:
– Kệ xác, để cho hổ tha ma bắt càng tốt!
Nói rồi, chị ta tiếp tục ngồi gói bánh, rồi bắc nồi lên luộc.
Lúc đó, đêm đã khuya, hai đứa con thấy đợi bánh lâu quá, ngủ sau lúc nào không biết. Lúc bấy giờ chị ta mới sực nhớ tới chồng đang nằm ngoài trời. Chị ta thắp đuốc và giục thằng con trai dậy cùng đi tìm chồng. Tới đoạn bìa rừng chị ta gọi chồng mãi nhưng chẳng thấy tiếng thưa. Không còn cách nào nữa, hai mẹ con đành đi sâu vào các lùm cây bụi cỏ để tìm. Bỗng đến một nơi cây cỏ nát lụi, đi bước nữa chỉ thấy những vũng máu, rồi tay áo…
Mẹ con oà lên khóc: "thôi thế là hổ đã ăn thịt chồng tôi".
Hai mẹ con vừa khóc vừa chạy vội về làng. Nghe tiếng kêu khóc thảm thương của hai mẹ con nhà họ, cả làng kéo đến giúp tìm thâu đêm nhưng không thấy tăm hơi đâu cả. Hối hận lắm, sáng hôm sau người vợ và đứa con trai lại bổ đi tìm chồng. Hai mẹ con cứ lần theo các giọt máu và vết chân hổ mà đi. Họ đi mã đến trưa thì tìm thấy xác chồng ở trong thung lũng. Xác anh ta còn, vì mùi rượu nồng nặc hổ không thể nào ăn được.
Người vợ ôm lấy xác chồng mà khóc, mà kể lể mọi nỗi khổ cực của mình. Chị ta khi thì gào thét lúc thì kể lể vật vã bên chồng, cuối cùng chị ta khóc không thành tiếng nữa. Chị ta nghĩ bây giờ mà về thì cũng nghèo đói, lại bị làng bản chê cười là đã bạc bẽo với chồng, chi bằng chết đi cho rảnh. Nghĩ vậy chị tự cắn lưỡi mà chết. Con hổ lúc đó đang lẩn sau bụi cây, nghe hết mọi điều chị ta than khóc lấy làm thương hại lắm. Nó nghĩ bây giờ làm sao mà đền tội cho vợ chồng nhà nghèo này được. Thế là hổ ta bèn đi bắt lấy hai con lợn, chờ đêm đưa xác vợ chồng nọ cùng hai con lợn vừa bắt về ngay trước cửa nhà họ. Người con trai thấy mẹ chết theo bố, sợ quá chạy về nhà.
Hai anh em kêu khóc thật sầu thảm. Chiều ba mươi Tết, cả làng người đưa đến cân thịt, kẻ đưa đến chiếc bánh, nhưng cả hai đứa bé đều không thiết ăn. Sáng hôm mồng Một, từ tinh mơ, người ta thấy xác hai vợ chồng ôm nhau chết ngay trước cửa. Bên cạnh còn có hai con lợn chết lăn ra đấy nữa, cả làng đều lấy làm lạ. Khi họ xúm lại xem thì thấy xung quanh dày đặc vết chân hổ, mới biết là hổ mang về. Trước cảnh thương tâm đó, dân làng bỏ cả ăn Tết để khâm liệm, chôn cất cho vợ chồng họ. Rồi dùng hai đầu lợn cúng lên trước hai vong linh.
Về sau hai đứa con lớn lên, hàng năm cứ đến ba mươi Tết, lại nhớ tới ngày giỗ bố, mẹ. Hai đứa con gói bánh chưng rồi buộc cặp hai cái vào nhau đặt lên bàn thờ cúng cha mẹ. Từ đó người Cao Lan cứ đến Tết lại gói bánh chưng, hai cái buộc vào nhau, luộc chín để cúng tổ tiên.


9. Sự tích ngày Tết
Ngày xưa, con người chưa biết tính thời gian, chưa biết tính tuổi của mình. Ở nước nọ, có một ông vua nổi tiếng thông minh và tài đức. Đất nước của ông thanh bình, dân tình no ấm.
Một lần, nhân dịp vui, nhà vua nảy ý định ban thưởng cho người già nhất trong nước. Nhưng chẳng làng nào chọn được người già nhất nước. Thấy vậy, nhà vua liền phái một đoàn sứ giả đi tìm các vị thần để biết hỏi cách biết người già nhất.
Vâng lệnh vua, đoàn sứ giả lên đường. Vị thần đầu tiên họ gặp là Thần Sông. Thần Sông mặc áo trắng, tóc mềm như nước, nghe sứ giả hỏi bèn lắc đầu trả lời:
– Ta ở dây đã lâu nhưng chưa bằng mẹ ta. Hãy đến hỏi mẹ ta. Mẹ ta là Biển Cả.
Thần Biển mặc áo xanh biếc đang ru con bằng những lời sóng vỗ. Được hỏi, thần Biển chỉ tay lên ngọn núi xa xa và nói:
– Hãy hỏi Thần Núi, Thần còn sinh ra trước cả ta. Khi ta lớn lên thì Thần Núi đã già rồi.
Đoàn sứ giả lại lặn lội đến gặp Thần Núi, Thần Núi da xanh rì vì rêu bám cũng lắc đầu chỉ tay lên trời:
– Hãy đến hỏi Thần Mặt Trời. Lúc ta mới chào đời, ta đã phải nhắm nghiền mắt vì nắng của Thần. Thần Mặt Trời còn có trước cả ta.
Làm sao đến được chổ Thần Mặt Trời. Đoàn sứ giả thất vọng quay về. Đến một khu rừng, họ gặp một bà lão nét mặt buồn rầu ngồi chăm chú trước cây hoa đào. Đoàn sứ giả đến gần hỏi:
– Thưa cụ, tại sao cụ lại ngồi đây?
Bà lão trả lời:
– Tôi đến đây để hái hoa đào. Thuở trước, con tôi đi xa, cây đào này đang nở hoa. Bây giờ, mỗi lần hoa đào nở, tôi lại ra hái một bông hoa để về nhớ đến con tôi.
Một ý nghỉ vụt lóe lên, đoàn sứ giả xin phép bà lão trở lại kinh đô.
Họ tâu lên vua việc gặp bà lão hái hoa đào tính thời gian chờ con. Nhà vua vốn thông minh nên nghỉ ra cách tính tuổi con người: Cứ mỗi lần hoa đào nở thì tính một tuổi. Sau này người ta mới biết mười hai lần trăng tròn rồi khuyết, hoa đào mới nở một lần.
Lại kể về chuyện nhà vua, sau khi tìm được cách tính tuổi, ông rất vui mừng, cảm động và nhớ đến bà lão hái hoa đào, nhà vua truyền cho thần dân cả nước: Mỗi lần hoa đào nở được mở hội ba ngày ba đêm. Những ngày vui ấy sau này người ta gọi là Tết. Phong tục ấy còn truyền mãi đến bây giờ.


10. Tại sao kiêng quét nhà ngày Tết?
Bắt đầu từ giao thừa, không nhà nào dùng chổi quét nhà cửa bởi mọi người tin rằng quét nhà trong mấy ngày Tết là sẽ quét hết Tài lộc trong năm mới.
Tục kiêng cữ này bắt nguồn từ một điển tích của Trung Quốc ghi trong “Sưu thần ký”.
Chuyện kể rằng ngày xưa có người lái buôn tên là Âu Minh, đi qua hồ Thanh Thảo gặp một bé gái ăn mặc rách rưới gày gò xanh xao. Động lòng trắc ẩn ông lái buôn đưa cô bé về nhà làm con nuôi và đặt tên là Như Nguyệt. Đem cô bé về nhà nuôi được vài năm thì Âu Minh ăn nên làm ra, nhà rất giàu, nhưng cũng trở nên ác độc keo kiệt.
Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, không may Như Nguyệt làm vỡ chiếc bình quý, Âu Minh đã đánh Như Nguyệt, cô sợ quá chui vào đống rác ở góc nhà. Vợ Âu Minh không để ý nên vô tình quét nhà hót luôn cả đống rác có Như Nguyệt bên trong đổ đi. Từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Người ta bảo Như Nguyệt chính là thần tài và lập bàn thờ để thờ. (Có lẽ vì vậy mà bàn thờ thần tài thường để ở góc nhà).
Từ đó có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm do người ta sợ hót mất thần tài ẩn trong đó đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt.

